Hộp số là một hệ thống gồm nhiều cặp hay bộ các
bánh răng khớp với nhau, được sử dụng để truyền mô-men xoắn từ động cơ tới các
bánh xe chủ động của ôtô. Ngày nay, ngoài hộp số tay truyền thống, còn có thêm
các loại hộp số tự động, số li hợp kép hay số vô cấp (CTV).
1. Hộp số tay
Đặc điểm chính của hộp số tay hay còn gọi là số sàn là
người lái phải tự chuyển số bằng pê-đan côn (li hợp) và cần số trên sàn xe.
Thành phần chính của hộp số tay gồm một trục bánh răng trung gian, hoạt động nhờ
kết nối với trục xoay của động cơ. Một trục bánh răng chốt (splined shaft) nối
trực tiếp với trục dẫn động thông qua vi-sai đến các bánh xe. Tương ứng với các
bánh răng ở trục trung gian sẽ là các bánh răng trên trục chốt để tạo ra những
tỷ số truyền động khác nhau. Nhông cài (collar) gắn với cần số có chức năng kết
nối các bánh răng ở trục chốt với trục dẫn động tới các bánh xe. Nhông cài có
thể trượt qua trái hoặc phải dọc theo trục chốt để gài vào các bánh răng khác
nhau. Các răng trên nhông, gọi là răng chó (dog teeth), khớp với các lỗ mặt bên
của bánh răng trên trục chốt để khóa vào nhau.

Hộp số tay ở xe hiện đại còn sử dụng bộ đồng tốc để loại
bỏ thao tác côn kép. Mục đích của bộ đồng tốc là cho phép nhông cài và bánh răng
có cùng tốc độ trước khi khớp với các răng chó. Xe chạy chậm (số 1) là nhờ tỷ số
bánh răng cao để vận tốc của bánh răng truyền mô-men xoắn vào trục bánh xe chủ
động thấp. Khi chạy nhanh (số 5, 6, 7) tỷ số bánh răng thấp – các bánh răng có
đường kính gần tương đương nhau – để vận tốc của bánh xe tương đương với vận tốc
xoay của động cơ.
Ưu điểm của hộp số tay là giá thành (rẻ hơn hộp số tự
động khoảng 1.000USD), bảo dưỡng đơn giản hơn, ít tốn kém hơn. Hộp số tay nếu
được sử dụng thích hợp có thể hoạt động hàng trăm nghìn km mà không trục trặc.
Việc thay dầu định kỳ cũng không thường xuyên như hộp số tự động. Trên đường
trường, số tay tiết kiệm từ 5-15% nhiên liệu so với số tự động. Quan trọng hơn,
số tay tạo cảm giác chế ngự trực tiếp sức mạnh của động cơ ôtô và người điều
khiển có thể cảm nhận được sức mạnh tối đa của động cơ. Tuy nhiên, sử dụng số
tay có thể là một trải nghiệm “tra tấn” khi bị kẹt xe trong đô thị.
2. Số tự động
Số tự động là loại hộp số có thể tự động thay đổi tỷ số
truyền động bằng cách sử dụng áp suất dầu tác động tới từng li hợp hay đai bên
trong. Vì thế, khác biệt dễ thấy nhất là xe lắp số tự động không có chân
côn.
Trái tim của số tự động là bộ bánh răng hành tinh. Cấu
tạo của bộ bánh răng này bao gồm bánh răng định tinh (còn gọi là bánh răng trung
tâm hay bánh răng mặt trời) nằm ở giữa. Các bánh răng hành tinh nhỏ ăn khớp và
xoay quanh bánh răng mặt trời, được lắp với một giá đỡ. Cuối cùng là vòng răng
ngoài bao quanh và ăn khớp với các bánh răng hành tinh nhỏ.
Trong hộp số tự động, vòng răng thường được chế tạo thêm
rãnh răng ở mặt ngoài để ăn khớp với các đĩa ma sát của ly hợp, như vậy các đĩa
ma sát sẽ chuyển động cùng với vòng răng. Cả ba thành phần này đều có thể đóng
vai trò của bánh răng truyền mô-men xoắn, bánh răng nhận mô-men xoắn hoặc có thể
cố định. Bằng cách đổi vai như vậy, tỷ lệ truyền động sẽ thay đổi. Máy tính điện
tử sẽ tính toán mức chịu tải của động cơ cũng như tốc độ để qua đó điều khiển
các li hợp hay đai giữ thông qua áp suất dầu nhằm cố định hay cho phép các thành
phần này chuyển động.
Số tự động có thêm bộ chuyển đổi mô-men (torque
converter) - một loại “khớp nối” dầu giữa động cơ và hộp số đóng vai trò thay
cho li hợp ở số tay để cho phép động cơ quay độc lập với hộp số. Với bộ chuyển
đổi mô-men này, một số chuyển động trượt sẽ xảy ra trong quá trình vận hành vì
thế hiệu suất hoạt động của hộp số bị giảm bớt. Tuy nhiên, hầu hết các bộ chuyển
đổi mô-men trong hộp số hiện đại ngày nay đã có thêm li hợp khóa để ngăn chuyển
động trượt giúp bộ chuyển đổi mô-men có hiệu suất hoạt động tương đương với li
hợp của số tay. Mặc dù vậy, do số tự động sử dụng một phần sức mạnh của động cơ
để vận hành bơm thủy lực tạo ra áp suất dầu điều khiển các li hợp bên trong nên
số tay vẫn tiết kiệm nhiên liệu hơn.
Ưu điểm chính của số tự động là giải phóng cho người lái
khỏi chân côn cũng như cần số, giúp người sử dụng cảm thấy thoải mái khi xe hoạt
động trong đô thị thường xuyên xảy ra kẹt xe, tắc đường. Nghiên cứu cho thấy xe
sử dụng số tự động hoạt động trong đô thị có mức tiêu thụ nhiên liệu tương đương
xe lắp số tay, và trong nhiều trường hợp còn thấp hơn. Tuy nhiên, cũng có người
cho rằng số tự động đem lại cảm giác nhàm chán, không thú vị. Một ưu điểm khác
của số tự động là giá trị bán lại của xe đã qua sử dụng lắp số tự động cao hơn.
Tuy nhiên, số tự động cũng chóng mòn và hỏng hơn nên cần được bảo hành nhiều
hơn, tốn kém hơn.
3. Số li hợp kép
Hộp số ly hợp kép (dual–clutch transmission - DCT) hay
còn gọi là hộp số bán tự động cũng giải phóng cho người lái khỏi pê-đan côn li
hợp khi chuyển số. Về cơ bản, có thể mô tả DCT như sự kết hợp giữa hai hộp số
tay.

Không giống như số tay truyền thống, vốn đưa tất cả các
bánh răng lên một trục truyền mô-men xoắn, DCT gồm hai trục truyền mô-men xoắn
lồng vào nhau, một trục nằm phía bên trong của trục kia. Hai trục này gồm một
trục gắn các bánh răng ở cấp số lẻ (trục trong) và một trục gồm các bánh răng ở
cấp số chẵn (trục ngoài). Bộ đôi ly hợp của DCT, thường thuộc loại ly hợp ma sát
ướt, nghĩa là các đĩa ma sát được ngâm trong dầu và được điều khiển bằng cơ cấu
thủy lực-điện tử. Hai ly hợp này hoạt động hoàn toàn độc lập với nhau, một điều
khiển các bánh răng cấp số lẻ (1, 3, 5 và bánh răng số lùi), trong khi ly hợp
còn lại có nhiệm vụ điều khiển bánh răng số chẵn (2, 4,6). Quá trình chuyển số
có thể thực hiện tự động hoàn toàn tuỳ thuộc vào chế độ hoạt động của động cơ và
lực cản của mặt đường. DCT cũng có thể cho phép người lái chuyển số tay mặc dù
nó vẫn được thực hiện thông qua hệ thống thủy lực-điện tử của hộp số.
Với kết cấu như trên, quá trình tăng hoặc giảm số diễn ra
rất nhanh chóng (chỉ 8 mili giây), liên tục và vì thế điểm mạnh nhất của DCT là
tiết kiệm nhiên liệu. Một số chuyên gia cho biết, hộp số li hợp kép 6 cấp có thể
cải thiện 10% hiệu suất tiêu thụ nhiên liệu so với hộp số tự động 5 cấp truyền
thống. Tuy nhiên, chi phí phụ trội để ứng dụng hộp số này không nhỏ, khi các
hãng ôtô phải điều chỉnh dây chuyền chế tạo cho phù hợp với loại hộp số
mới.
4. Số vô cấp
Không giống như hộp số truyền thống, hộp số vô cấp
(continuously variable transmission – CVT) không có các cặp bánh răng tạo tỷ số
truyền. CVT thường hoạt động trên một hệ thống puli (ròng rọc) và dây đai truyền
cho phép thay đổi vô cấp và liên tục, không tách biệt riêng rẽ các số.
Hệ puli với đường kính thay đổi là thành phần chính của
CVT. Mỗi puli được tạo thành từ hai khối hình nón có góc nghiêng 20 độ đặt đối
diện với nhau. Một dây đai chạy trong rãnh giữa hai khối hình nón này. Hai khối
hình nón này có thể thay đổi khoảng cách giữa chúng. Khi hai khối hình nón tách
xa nhau, dây đai ngập sâu vào trong rãnh và bán kính của dây đai quấn quanh puli
sẽ giảm đi. Khi hai khối hình nón này ở gần nhau, bán kính của dây đai tăng
lên.
Hệ puli gồm một puli chủ động nối với trục quay của động
cơ. Puli thứ hai gọi là puli bị động có chức năng truyền mômen đến trục dẫn động
bánh xe. Tỷ số giữa bán kính quay trên puli chủ động và bán kính quay của puli
bị động xác lập nên “số”. Khi một puli tăng bán kính và cái kia giảm bán kính để
giữ cho dây đai luôn bám chặt vào giữa hai khối hình nón, chúng sẽ tạo ra vô số
các tỷ số truyền, từ mức thấp nhất cho đến cao nhất.
Ưu điểm của CVT là giảm những cú sốc khi chuyển số qua đó
có thể tăng đáng kể khả năng tiết kiệm nhiên liệu. Tuy nhiên, dây đai của nó
cũng có thể bị trượt và kéo giãn, làm giảm hiệu suất hoạt động. Điểm yếu lớn
nhất của CVT là không chịu được mô-men xoắn cao, do đó không ứng dụng được với
xe thể thao. Song sự đơn giản của CVT đã biến chúng trở thành lý tưởng cho xe
máy. Xe hybrid lắp CVT cũng đang phổ biến và hộp số này đang được sử dụng cho
chiếc Toyota Prius danh tiếng.
Xe360.vn(nguồn
autonet)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét