TBT
Gần đây có quá nhiều ý kiến, lo lắng
về thực trạng giáo dục Việt Nam: sách giáo khoa, tuyển sinh đại học, VNEN…. Trên
Giáo dục Việt Nam, GS Nguyễn Lân Dũng cho rằng “Chúng ta không bi quan về thực
trạng giáo dục nước nhà nhưng cần xác định cái gì nên làm trước, cái gì nên thực
hiện sau vì “dục tốc bất đạt”.
CHÚNG TA TỰ HÀO HAY LO LẮNG VỀ
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC NƯỚC NHÀ?
GS Nguyễn Lân
Dũng
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Chung-ta-nen-tu-hao-hay-lo-lang-ve-thuc-trang-nen-giao-duc-nuoc-nha-post170449.gd

Nhìn về nền giáo dục nước nhà, tôi
thấy có rất nhiều điểm đáng tự hào, bên cạnh tình trạng hiếu học muốn tiếp tục
học lên cao của đa số thanh thiếu niên nước ta và lòng yêu nghề mến trẻ của hầu
hết các giáo viên còn có tố chất thông minh của một bộ phận không nhỏ học sinh,
sinh viên Việt Nam.
PISA là chữ viết tắt của
“Programme for International Student Assesment – Chương trình đánh giá học
sinh quốc tế” do OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới –
Organization for Economic Cooperation and Development) khởi xướng và chỉ
đạo.
Hiện đã có hơn 60 nước tham gia vào
cuộc khảo sát có chu kỳ 3 năm một lần này để theo dõi tiến bộ của mình trong
phấn đấu đạt được các mục tiêu giáo dục cơ bản.
Cho tới nay PISA là cuộc khảo sát giáo
dục duy nhất đánh giá kiến thức và kỹ năng của học sinh ở độ tuổi 15, độ tuổi
kết thúc giáo dục bắt buộc ở hầu hết các quốc gia. Nội dung đánh giá của PISA
hoàn toàn được xác định dựa trên các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cuộc sống
tương lai, không dựa vào nội dung các chương trình giáo dục quốc gia. Đây chính
là điều mà PISA gọi là “năng lực phổ thông”.
Để làm được việc đó PISA thu thập và
cung cấp cho các quốc gia các dữ liệu có thể so sánh được ở tầm quốc tế cũng như
xu hướng của dữ liệu quốc gia về trình độ đọc hiểu, toán học và khoa học của học
sinh độ tuổi 15.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia,
PISA là cuộc khảo sát tin cậy về kiến thức và kỹ năng của học sinh song chúng ta
đang đứng trước những thách thức lớn khi lần đầu tiên Việt Nam tham gia
PISA.
Nhìn vào bảng trên ta thấy mặc dầu chỉ
sô GDP tính theo đầu người của nước ta còn rất thấp so với các nước trên thế
giới, vậy mà chỉ số PISA lại ngang hàng với những nước có nền giáo dục phát
triển như Phần Lan, Thuỵ Sĩ…
Trong số 8 quốc gia đang phát triển
tham gia vào bài thi PISA, Việt Nam là quốc gia có GDP bình quân đầu người thấp
nhất, ở mức 4.098 USD/năm. Tuy nhiên, điều đặc biệt là sinh viên Việt Nam lại
đạt điểm số cao hơn các nước khác.
Về Chương trình nghiên cứu toán học và
khoa học quốc tê TIMMS, chuyên gia Abjijeet Singh sau khi xem xét kết quả bài
thi TIMMS đã nhận ra rằng: Trẻ em Việt Nam thể hiện tốt hơn so với bạn bè cùng
trang lứa ở những quốc gia đang phát triển khác dù mới 5 tuổi và khoảng cách này
đang dần được nới rộng hơn sau mỗi năm. Ông đánh giá: “Một năm học Tiểu học
tại Việt Nam đạt hiệu quả hơn về mặt tiếp thu các kỹ năng so với cấp độ tương tự
tại Peru hay Ấn Độ”.
Những kết quả ấy là một căn cứ đáng
tin cậy cho việc đánh giá thực trạng giáo dục phổ thông ở Việt Nam, khiến cho
không ít người Việt Nam tin tưởng và tự hào về những chính sách giáo dục của
chúng ta, về trình độ, năng lực giáo dục và tâm huyết của đội ngũ các giáo viên
cũng như hiệu quả của công tác quản lý giáo dục ở trường phổ
thông.
Kết quả ấy còn là cơ sở khoa học để Bộ
Giáo dục và Đào tạo lựa chọn các mô hình giáo dục phù hợp, tổng kết và đánh giá
thực tiễn giáo dục từ nhiều năm trước để phát huy những thành tựu đã đạt được và
tiếp tục cải tiến, đổi mới phương pháp giáo dục nhằm đạt tới kết quả và hiệu quả
cao hơn.
Tại sao Đảng chủ trương đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục – đào tạo; phát triển nguồn nhân lực – xác định đây là
một quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở
con đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI; khẳng định triết
lý nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy
nghề”?
Đây không phải là những sửa đổi, điều
chỉnh đơn lẻ, cục bộ mà phải đụng đến bản chất của hệ thống, làm thay đổi căn
bản về chất cả hệ thống giáo dục, đưa lên một trình độ mới với hiệu quả, chất
lượng cao hơn.
Những đổi mới bao gồm tư duy về sứ
mạng, quan điểm, cơ chế phát triển, mục tiêu và môi trường giáo dục. Bên cạnh đó
còn đổi mới cả động lực, nguồn lực phát triển và tổ chức chỉ đạo quá trình đổi
mới giáo dục.
Bàn về Dự án Mô hình trường
học mới VNEN
Để thực hiện quá trình Đổi mới giáo
dục Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ưu tiên vào việc thí điểm triển khai Dự án Mô hình
trường học mới tại Việt Nam GPE-VNEN (Global Partnership for Education-Vietnam
Escuela Nueva), khởi nguồn từ Colombia.
Ở nước này đây là dự án để dạy trong
những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn theo nguyên tắc “lấy học sinh làm trung
tâm”. Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”, các Ban trong lớp do học
sinh tự nguyện xung phong, cần sự tư vấn, khích lệ, giám sát của giáo viên, phụ
huynh.
Hội đồng tự quản học sinh gồm 1 Chủ
tịch, 2 Phó chủ tịch, và các Ban (học tập, quyền lợi, sức khoẻ, vệ sinh,văn
nghệ, thể dục, thư viện, đối ngoại…).
Rất nhiều thầy giáo và phụ huynh băn
khoắn: Vì sao trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, với nhiều nền
giáo dục tiên tiến, vậy mà ta lại lấy mô hình Colombia (một nước nhỏ và nghèo ở
Nam Mỹ)?
Nguồn tài trợ cho dự án này là 84,6
triệu USD từ Quỹ Hỗ trợ toàn cầu về Giáo dục của Liên Hiệp Quốc. Chúng ta đã
triển khai từ năm học 2012-2013 trên 54 tỉnh, thành phố với 2.365 trường Tiểu
học và trên 1.000 trường Trung học cơ sở (!). Có nghĩa là mấy vạn học sinh từ
lớp 1 đến lớp 9 đang bị buộc là “chuột thí nghiệm”. Theo dự kiến Chương trình đã
kết thúc vào ngày 31/5/2016.
Có quá nhiều ý kiến khác nhau trong
quá trình triển khai dự án này.
Theo quan điểm của tôi, đã đến lúc cần
lắng nghe phản biện của các Hiệu trưởng, giáo viên, phụ huynh và đông đảo học
sinh.
Cần đặt ra câu hỏi: “Ai sẽ chịu
trách nhiệm khi Dự án không đạt được các yêu cầu như mong
muốn”?
Qua các phương tiện truyền thông chúng
ta biết Hà Tĩnh quyết định dừng triển khai mô hình trường học mới VNEN trên 100%
các trường Tiểu học và Trung học Cơ sở ở địa bàn toàn tỉnh (!).
Một phụ huynh phát biểu: “Tôi gửi
cháu theo chị vào học trong Nam vì lo con lác mắt, vẹo lưng”
– theo Giaoduc.net.vn.
Hà Giang cũng quyết định dừng nhân
rộng mô hình trường hợp mới VNEN. Nhiều phụ huynh ở trường Trung học Cơ sở Đất
Đỏ ở Bà Rịa – Vũng Tàu nhất quyết xin rút con khỏi các lớp theo mô hình VNEN cho
nên Vũng Tàu cũng kiến nghị tạm dừng.
Vì sao mô hình VNEN trở thành nỗi ám
ảnh của nhiều giáo viên, học sinh và cả phụ huynh?
Có rất nhiều lý do, quan trọng nhất có
lẽ vì điều kiện cần và đủ chưa đáp ứng; học sinh non nớt phải tổ chức lớp học
theo cặp đôi, thảo luận nhóm, thiếu trang thiết bị, giáo trình còn giáo viên thì
chưa được tập huấn kỹ, học sinh yếu kém không năng động tham gia mà chỉ nhường
quyền phát biểu cho các học sinh khá giỏi.
Lẽ nào các mô hình chúng ta đang giảng
dạy thua kém chất lượng so với các trường ở Colombia?
Có thể kể đến không ít các trường quốc
tế dạy theo chương trình nước ngoài và học sinh đang được học một cách vừa nhẹ
nhàng vừa có chất lượng cao.
Các trường Việt Nam tuy bị ràng buộc
bởi khung chương trình, sách giáo khoa, theo kế hoạch và chỉ đạo chặt chẽ của Bộ
nhưng nhờ có những sáng kiến riêng, đội ngũ giáo viên giỏi nên đã tạo nên những
thương hiệu nổi tiếng.
Có thể kể đến các trường chuyên, lớp
chuyên trực thuộc một số trường Đại học, trường phổ thông liên cấp Olympia;
trường phổ thông Amsterdam; trường Lương Thế Vinh; trường Marie Curie; trường
Đoàn Thị Điểm…
Góp ý về xây dựng chương trình
Sách giáo khoa
Trong dự kiến quá trình xây dựng
Chương trình và Sách giáo khoa một băn khoăn rất lớn trong giới khoa học và giáo
dục là vì sao Bộ không tận dụng sự tham gia của đông đảo hội Khoa học chuyên
ngành đang được tập hợp trong Liên hiệp Các Hội Khoa học và Công nghệ Việt Nam
(VUSTA)?
Đó là Hội Toán, Hội Vật Lý, Hội Hoá
học, Hội các ngành Sinh học, Hội Lịch sử, Hội Địa lý, Hội Địa chất, Hội Ngôn ngữ
hoc. Ngoài Liên hiệp VUSTA còn có các Hội liên quan đến Văn, Nhạc, Hoạ, Nhiếp
ảnh, Hội làm vườn, Hội địa chất, Hội cơ khí, Hội Thuỷ sản, Hội Sinh vật cảnh,
Hội Khuyến học…
Các Hội này đâu chỉ gồm các nhà khoa
học mà còn bao gồm rất nhiều giáo viên đang dạy ở các trường phổ
thông.
Vì sao Bộ chỉ liên kết trên danh nghĩa
với VUSTA chứ không dựa vào đội ngũ chuyên gia của các Hội một cách thực
chất?
Bộ tự đi chọn người làm Chương trình,
soạn Sách giáo khoa sẽ tốt hơn hay là để các Hội dân chủ bàn bạc và lựa chọn
giúp Bộ?
Chuyện xây dựng Chương trình và biên
soạn sách giáo khoa là chuyện hết sức hệ trọng.
Theo tôi cần có những cuộc Hội thảo
quốc gia để định hướng biên soạn Chương trình và sách giáo
khoa.
Sau đó phân cho các Hội chuyên ngành
chọn chuyên gia (cả giáo viên) biên soạn chương trình dưới sự chỉ đạo của Bộ và
cần có một Hội đồng quốc gia đầy đủ uy tín để xét duyệt Chương trình
chuẩn.
Sau đó theo quyết định của Quốc hội là
có nhiều bộ Sách giáo khoa sẽ để các nhóm chuyên gia đăng ký biên soạn Sách giáo
khoa theo từng môn học chứ không phải có nhóm đăng ký cả bộ Sách giáo
khoa.
Cần tự do đăng ký chứ không nên để ra
những tiêu chuẩn chặt chẽ, bởi vì kết quả là sản phẩm có được duyệt hay
không?
Sẽ không có tiêu chuẩn gì khác ngoài
đúng chương trình và có chất lượng tốt, thông qua hai tiêu chí trên tại các Hội
đồng xét duyệt Sách giáo khoa cấp Quốc gia.
Quyền lựa chọn Sách giáo khoa nên như
các nước, đó là là tuỳ từng giáo viên, học sinh, vì tất cả đều đã theo đúng cùng
một chương trình chuẩn, chỉ với các cách trình bày khác nhau mà thôi. Không có
chuyện trao quyền lựa chọn cho Sở hay trường để dẫn tới vô vàn chuyện tiêu
cực.
Một vấn để rất lớn đang gây phân tâm
trong xã hội, đó là quan niệm thế nào là Tích hợp?
Không ai phản đối Tích hợp, nhưng tích
hợp thế nào cho hợp lý thì lại là chuyện khác.
Ví dụ: Pháp không dạy Sinh học mà dạy
Khoa học về sự sống và về Trái đất; không dạy Thực vật, Động vật, Người, Vi sinh
vật… mà dạy từng chức năng sống từ Virut đến Người, liên quan đến môi trường
sống, đến vệ sinh, an toàn thực phẩm…
Mỹ có môn Tự nhiên (Nature) in trong 1
cuốn sách nhưng lại có hẳn ba bài hoàn toàn riêng biệt (Vật Lý, Hoá học, Khoa
học Sự sống).
Mỗi bài (unit) do các thầy dạy riêng,
không ai bắt giáo viên soạn và dạy chung cả ba môn này (!). Rất ít có sự tích
hợp giữa ba môn nhưng nếu có thì càng tốt, tích hợp như tôi trình bày ở trên là
giữa lý thuyết với cuộc sống, với thiên nhiên, với tiến bộ Khoa học-Công nghệ,
với biến đổi khí hậu, với trách nhiệm công dân..
Quốc hội có quyết nghị (hơi vội vã) là
không tích hợp Sử với Địa Lý, vậy các môn khác thì sao?
Một chuyện rất hệ trọng là nên phân
ban từ lớp nào và nên phân thành mấy ban là hợp lý nhất?
Chúng ta đã có một giai đoạn phân ban
rất tốn kém rồi lại phải huỷ bỏ, đừng lặp lại những sai lầm như
thế.
Tất cả chúng ta ai cũng thấy cần cung
cấp đủ kiến thức cơ sở cho mọi học sinh, vì hạnh phúc của mỗi con người là đã
được trang bị đủ kiến thức trên ghế trường phổ thông để đủ khả năng có thể tự
học thêm trong suốt cuộc đời.
Nên tham khảo nhiều nước chỉ phân ban
trong hai năm cuối ở bậc Trung học Phổ thông (lớp 11, 12).
Đã phân ban thì nên phân sâu, nước
Nepal rất nghèo nhưng giáo dục lại rất tốt. Họ chỉ phân có bốn ban: Toán Lý; Hoá
Sinh; Khoa học Xã hội và Quản trị kinh doanh; mỗi ban có 4 môn học. Có lẽ vì vậy
nên tôi mua hai cuốn sách Sinh học lớp 11, 12, cả hai đều dày trên 700 trang
(!), trong khi sách Sinh học của chúng ta mỏng như… lưỡi mèo!
Góp ý về hình thức thi
cử
Một chuyện rất quan trọng nữa là nên
thi cử như thế nào? Chúng ta loay hoay thử nghiệm mất mấy năm nay rồi mà vẫn
không ổn.
Cần nhận thức rõ nhìn chung trên thế
giới người ta bắt học sinh “Học gì thi nấy”. Ngược lại nếu như cách thi hiện nay
thì tất cả học sinh sẽ có xu hướng “Thi gì học nấy”, tâm lý học sinh chắc chắn
là không thi không học. Nếu chỉ thi một số môn thì các môn khác học sinh không
học, giáo viên dạy các môn coi như “phụ” này lấy đâu ra phấn khởi để truyền đạt
kiến thức?
Nếu thi Tốt nghiệp Trung học Phổ thông
mà trên 90% đậu thì thi làm gì cho lãng phí tiền bạc và hoàn toàn không đúng
thực chất?
Kỳ thi Quốc gia có nhiều thành công
nhưng cũng còn rất nhiều ý kiến khác nhau, rất cần thảo luận thêm cho hoàn
chỉnh.
Cũng nên tham khảo kiểu kiểm tra SAT
của nền giáo dục Mỹ, có thể thi lại nhiều lần, vừa rất chính xác lại không quá
nặng nề với học sinh.
Cũng cần có biện pháp loại bỏ các Sách
tham khảo chất lượng kém, gây tốn kém quá nhiều tiền bạc và lãng phí thời gian
của học sinh.
Về việc định hướng nghề nghiệp
cho học sinh
Một băn khoăn rất lớn trong toàn xã
hội hiện nay là cứ tuyển sinh ồ ạt như hiện nay thì sau khi tốt nghiệp học sinh
sẽ xin việc ở đâu?
Theo tôi việc thanh niên ta ham học là
quá tốt, chỉ có điều là nên cân nhắc vào từng năng khiếu để cho các cháu nên thi
vào trường nào, vào ngành nào để đáp ứng được nhu cầu của xã
hội.
Vì sao ở nhiều nước khác rất đông học
sinh xin học nghề, vì học nghề cũng có thể tiến rất xa, lương về sau có thể cao
hơn cả Tiến sĩ.
Hiện nay trí thức trẻ thất nghiệp quá
lớn. Theo thống kê công bố ngày 17/8/2016 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội
phối hợp với Tổng cục Thống kê thì bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam
quý 2 năm 2016 cho thấy: cả nước có 1,088 triệu người lao động trong độ tuổi lao
động bị thất nghiệp. Con số này đã tăng 16.400 người so với quý
1/2016.
Theo đó, có 418.200 người có chuyên
môn kỹ thuật bị thất nghiệp, chiếm tới 40%. Trong đó có 191.300 người có trình
độ từ đại học trở lên, 94.800 người có trình độ cao đẳng chuyên nghiệp và 59.100
người có trình độ trung cấp chuyên nghiệp.
Chúng ta cũng đang dư thừa quá nhiều
giáo viên: 41.000 giáo viên Tiểu học, 12.200 giáo viên Trung học Cơ sở, 16.900
giáo viên Trung học Phổ thông.
Trong khi đó các cơ sở đào tạo giáo
viên vẫn tiếp tục tồn tại quá nhiều: 9 trường Đại học Sư phạm, 1 Đại học giáo
dục, 31 Khoa Sư phạm trong Đại học đa ngành, 35 Cao đẳng Sư phạm, 19 Khoa Sư
phạm trong các trường Cao đẳng, 3 Trung cấp Sư phạm, 10 Trung cấp chuyên
nghiệp.
Đại học Sư phạm nên tuyển sinh
bao nhiêu và nên học gì?
Theo tôi không cần thiết giảm chỉ tiêu
tuyển sinh mà tạo ra hướng mới là lần lượt có kế hoạch bồi dưỡng cho mọi giáo
viên các cấp đều đạt chuẩn.
Còn các trường Đại học khác nếu không
đủ sức đào tạo ra những chuyên gia có tay nghề đích thực thì thà đào tạo các
loại ngoại ngữ chuyên ngành (!).
Nghe có vẻ bất thường nhưng nếu giỏi
ngoại ngữ theo chuyên ngành thì có thể dễ dàng tìm được công nghệ mới (đã hết
thời gian bảo hộ) qua Internet rồi để lập doanh nghiệp. Sinh viên cần phân hoá
theo năng khiếu và năng lực, chứ không do áp lực của bố mẹ và thiên kiến của xã
hội.
Góp ý về giáo dục Đại học và
trên Đại học
Về giáo dục Đại học và trên Đại học
tôi có mấy kiến nghị vắn tắt như sau:
Hàn Quốc ban đầu dịch nguyên văn sách
của Nhật Bản, mãi về sau mới biên soạn ra những bộ sách giáo khoa của riêng
mình.
Chúng ta không cần đến mức như thế
nhưng phải tham khảo các giáo trình hiện đại nhất trên thế
giới.
Sinh viên cuối cấp phải tự tham khảo
được sách giáo khoa nước ngoài, dù chỉ là bản sao chụp.
Học Đại học mà không tham gia nghiên
cứu khoa học thì làm sao đủ năng lực để hành nghề sau khi ra
trường?.
Tất cả các bộ môn tự xét thấy mình
không đủ năng lực đào tạo ra các sinh viên đủ sức đáp ứng cho nhu cầu xã hội thì
cần đổi mới nội dung và chất lượng đào tạo để sinh viên có thể dễ dàng tìm được
việc làm sau khi tốt nghiệp.
Ai cũng biết muốn có sinh viên giỏi
thì đầu vào phải tốt.
Rất tiếc hiện nay thông qua kỳ thi
quốc gia vừa qua thấy số đông có kiến thức quá thấp, nhất là với các môn quan
trọng như Toán, Văn, Ngoại ngữ.
Trong kỳ thi Quốc gia vừa qua: Môn
Toán cả nước chỉ có 86 thí sinh đạt điểm 10, tổng số thí sinh đạt điểm 9 trở lên
là 3.152. Có 5.410 thí sinh bị điểm 0; 6.671 thí sinh đạt 0,5 điểm, 8.586 thí
sinh bị điểm 1; chưa kể đến số thí sinh đạt mức 0,25 và 0,75. Ước tính số thí
sinh bị điểm liệt ở môn Toán có thể lên đến khoảng gần 40.000
em.
Môn Ngoại ngữ, vùng phổ điểm chủ yếu
tập trung ở mức 2-3,5 điểm, chỉ có 59 thí sinh đạt điểm 10; số thí sinh bị điểm
liệt gần 200 em.
Ngay môn Văn mà số thí sinh bị điểm 0
là 423 em, mức 0,5 điểm là 192 em và mức 1 điểm là 349 em. Tuy nhiên nếu tính số
thí sinh đạt ở mức 0,25 và 0,75 thì con số thí sinh bị điểm liệt có thể lên đến
hàng nghìn. Ở môn Văn, Bộ Giáo dục cũng xác nhận không có thí sinh nào đạt điểm
10.
Một mục tiêu quan trọng của
giáo dục là làm sao hài hoà giữa dạy chữ và dạy người.
Bác Hồ đã từng căn dặn: “Có tài mà
không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó”.
Rõ ràng một người sẽ không thể tiến
hành các công việc mà mình đảm nhiệm nếu không có tài năng, trí tuệ, kiến thức
nhưng sẽ là tệ hại hơn, với một người có tài năng nhưng lại thiếu vắng tư cách
và đạo đức.
Một chuyện thật đáng buồn là chuyện
bạo lực học đường ngày càng tăng.
Bạo lực học đường là hiện tượng xấu
xa, tiêu cực nhất đang có chiều hướng gia tăng trong lớp học, trên giảng đường
hiện nay. Thực trạng đó có phần nguyên nhân từ môi trường sư phạm trong nhà
trường không còn mô phạm như trước kia.
Sự liên hệ giữa nhà trường và gia đình
trong quản lý học sinh – sinh viên hiện nay tuy được thực hiện nhưng chưa đồng
bộ, thiếu chặt chẽ, điều đó cũng dẫn đến sự thả lỏng các em, tạo điều kiện cho
các em rất dễ trong việc nói dối, lêu lổng…
“Dạy người” là một quá trình, đồng bộ,
không chỉ một sớm một chiều, mà phải tiến hành liên tục, hàng ngày từ những việc
làm và ứng xử nhỏ nhất. Vì vậy, giáo viên chúng ta phải nỗ lực phấn đấu để là
những tấm gương sáng không chỉ về kiến thức mà còn về đạo đức tư cách. Có như
vậy mới xứng đáng là những “kỹ sư tâm hồn”.
Đây là một vấn đề rất thời sự mà tất
cả giáo viên đều mong Tân Bộ trưởng cần tham khảo ý kiến của số đông giáo viên
để có sự sửa đổi càng sớm càng tốt.
Góp ý về Thông tư 30 của
Bộ
Thời đại công nghệ thông tin rồi mà cứ
bắt giáo viên chuyên ngồi viết “lý lịch” học sinh một cách chi tiết là điều phản
khoa học và không cần thiết.
Những giáo viên như Mĩ thuật, Âm nhạc
dạy cả gần 1000 học trò thì việc ngồi viết lý lịch là một chuyện khổ ải đến vô
cùng.
Ngoài chuyện bất cập trong việc ghi lý
lịch học trò thì một số sổ sách không cần thiết nên giảm đi cho giáo viên, bởi
hiện nay có rất nhiều loại sổ ghi chép chỉ nhằm mục đích là để đối phó với thanh
tra.
Những lời phê của giáo viên không nhất
thiết phải ghi chép thường xuyên vào mấy quyển sổ… để lưu, mà nên tập trung vào
lời nhận xét vở học trò để từ đó nhà trường kết hợp với phụ huynh cùng kèm cặp
các em tiến bộ.
Phải tuyên truyền, bồi dưỡng cho đội
ngũ Ban giám hiệu nhà trường thấu đáo về chủ trương của Bộ, bởi nhiều năm nay
việc thanh tra giáo dục đã chuyển từ thanh tra giáo viên sang thanh tra người
đứng đầu.
Bởi thế nhiều Ban Giám hiệu chỉ lo mức
độ an toàn cho mình, cái gì cũng chỉ đạo giáo viên một cách máy móc theo lệnh từ
trên xuống. Những Ban giám hiệu như vậy chỉ mới là người đóng tròn vai chứ chưa
có sự linh động, sáng tạo.
Việc cốt lõi nhất là hiệu quả giảng
dạy của thầy và trò chứ không phải những quyển sổ vô hồn để đối phó với cấp trên
trong mỗi lần thanh kiểm tra.
Có lẽ hình ảnh những nhà giáo một tay
bế đứa con thơ, một tay loay hoay với tập hồ sơ, sổ sách đã trở lên phổ biến hơn
khi Thông tư 30 ra đời.
Ngoài nhiệm vụ dạy học Nhà nước phân
công thì thực tế giáo viên hiện nay còn phải làm nhiều công việc khác và một
trong những việc khá vất vả, tốn thời gian là hoàn thiện hồ sơ sổ sách theo quy
định như sổ dự giờ, giáo án, kế hoạch cá nhân, kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên,
sổ theo dõi tình hình phổ cập địa phương…
Tưởng chừng sẽ được hưởng lợi ích đến
từ sự tiến bộ xã hội đó thì các giáo viên tiểu học lại vất vả dùng đôi bàn tay
của mình ghi chép đến mỏi mệt, rã rời những điều dập khuôn, hình
thức.
Do vậy, cần giảm bớt tối đa các hồ sơ
sổ sách, tích cực đẩy mạnh ứng dụng Công nghệ Thông tin để giải phóng sức lao
động cho thầy và trò!
Đối với học sinh lớp 1 thì việc cần
thiết là dạy cho các em đọc thông, viết thạo và làm được các phép tính đơn giản,
chưa nhất thiết phải thảo luận nhóm từ đó dần hình thành cho các em kĩ năng học
bài.
Đối với khối một thì Ban Giám hiệu nhà
trường cũng nên hạn chế tổ chức thao giảng, dạy chuyên đề bởi những tiết học này
phần lớn là giáo viên phải “nhờ cậy” mấy em học khá giỏi để lấy lòng Ban giám
hiệu trong tiết dạy.
Ban giám hiệu cần động viên, chia sẻ
những khó khăn chứ đừng nên áp đặt, hoạnh họe, gây ức chế cho giáo viên, điều đó
chỉ khiến mất đi mối quan hệ với cấp dưới vừa khiến giáo viên đứng lớp luôn cảm
thấy cô độc trong quá trình giảng dạy, công tác.
Trong công tác khen thưởng cho học
trò, lời phê trong học bạ và sổ liên lạc cũng cần được chú trọng. Chú ý đến
những lời khen ghi trong giấy khen sao cho phù hợp, tránh tình trạng như dư luận
đã phản ánh trong năm học vừa qua và gây nhiều sự hiểu lầm cho phụ
huynh.
Trong các sổ liên lạc và học bạ giáo
viên chủ nhiệm cần xây dựng một hệ thống lời phê phù hợp với năng lực, phẩm chất
và kĩ năng của học trò, tránh tình trạng những lời phê na ná, chung chung như
nhau. Em nào cũng “ngoan hiền”, “học tốt” thì sẽ đánh đồng tất cả học
trò.
Suy cho cùng, quan trọng nhất vẫn là
cần thay đổi tư duy của các cơ quan quản lý giáo dục.
Theo UNESCO hai chỉ số cốt lõi để đánh
giá chất lượng Giáo dục là: Sự phát triển nhận thức của người học và thúc đẩy
những giá trị chung, sự phát triển sáng tạo và cảm xúc của người
học
Phải quản lý theo mục tiêu chất lượng
mới phù hợp với khoa học quản lý thời kinh tế thị trường. Nghị quyến 29/TƯ nói
rõ: “Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và chủ động sáng
tạo của các cơ sở Giáo dục và Đào tạo.
Phải khuyến khích các trường chủ
động tạo Thương hiệu, chỉ có chủ động sáng tạo mới tạo ra được thương hiệu, chứ
không phải cứ mải chạy theo số lượng tuỳ tiện, hạ thấp yêu cầu giáo dục một cách
toàn diện“.
Giáo sư Nguyễn Lân
Dũng
Phần nhận xét hiển thị trên trang






0 nhận xét:
Đăng nhận xét