Trần Đức
Viên
BVN nhất
trí với GS-TS Trần Đức Viên. Ở một đất nước mà ngay cả GS-TSKH Hoàng Xuân Phú
(Viện Toán học - Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam) cũng phải sững sờ
trước những con số phản ánh khối lượng và chất lượng công việc của các giáo sư,
phó giáo sư mà Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước công bố thì nỗ lực của Nhóm
xếp hạng đại học Việt Nam thực đáng trân trọng. Có lẽ trường đại học tử tế nào
cũng muốn có tên trong những bảng xếp hạng kiểu như thế
này.
Bauxite
Việt Nam
Không đi
thì không đến
Xếp hạng
đại học (ĐH) là một công việc hết sức khó khăn, gai góc và phức tạp, đòi hỏi sự
khách quan, nghiêm túc, công phu, thận trọng, dựa trên cơ sở dữ liệu đủ lớn, khả
tín, minh bạch với một hệ thống tiêu chí cũng như trọng số của từng tiêu chí
phải hết sức khoa học và thuyết phục. Trong bối cảnh Việt Nam, nơi hành vi của
mỗi cá nhân và cộng đồng vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi triết lí sống "một trăm
cái lí không bằng một tí cái tình" hay " xấu đều hơn tốt lỏi"… thì đây còn là
một công việc tế nhị, nhạy cảm mà những người không đủ bản lĩnh và dũng khí sẽ
không dám làm. Vì thế, việc Nhóm Xếp hạng ĐH Việt Nam (sau đây xin gọi tắt là
"Nhóm") gồm TS Lưu Quang Hưng, TS Nguyễn Ngọc Anh, TS Giáp Văn Dương, TS Ngô Đức
Thế, ThS Trần Thanh Thủy và ThS Nguyễn Thị Thu Huyền, mỗi người "một phương
trời", cùng nhau tiến hành và công bố bảng xếp hạng mang tính tổng thể đầu tiên
đối với 49 trường ĐH Việt Nam đã được đông đảo những người quan tâm đến chấn
hưng giáo dục (GD) ĐH Việt Nam đón nhận một cách trân trọng. Đã có nhiều ý kiến
bày tỏ lòng khâm phục sự nỗ lực, dám đối mặt với khó khăn và không cầu toàn của
nhóm tác giả, tin tưởng vào các phương pháp định lượng được sử dụng dù còn nhiều
tiêu chí và trọng số của các tiêu chí cần được thảo luận thêm. Đặc biệt, điều
đáng hoan nghênh là Nhóm đã chú trọng đến chất lượng, nhất là chất lượng nghiên
cứu khoa học (NCKH), cái quyết định danh tiếng và đẳng cấp của một trường
ĐH.
Thực tế
là, kết quả xếp hạng ĐH, dù do một tổ chức uy tín đến mấy công bố thì cũng không
thể hoàn hảo bởi không có bảng xếp hạng nào phản ánh được tất cả các mặt và lĩnh
vực hoạt động của một trường ĐH. Nhưng bất cứ bảng xếp hạng nào cũng đóng góp
những giá trị nhất định và có sự tương thích nào đó với chất lượng đào tạo và
NCKH của các trường nằm trong bảng xếp hạng, và vì thế, đó là một tài liệu tham
khảo, còn mức độ quan trọng đến đâu thì phụ thuộc mục đích và quan điểm của
người sử dụng. Các bảng xếp hạng này, không ít thì nhiều, đã góp phần vào việc
thay đổi chính sách quốc gia, chiến lược cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các trường ĐH theo hướng ngày một nhân văn và khai sáng hơn. Xếp hạng
còn khuyến khích các trường minh bạch thông tin, giúp xã hội và nhà nước giám
sát tốt hơn chất lượng hoạt động của các trường.
Vạn sự
khởi đầu nan, không đi thì không đến, vì thế, với việc công bố báo cáo xếp hạng
đầu tiên, Nhóm đã làm cho nhiều người - ít nhất là những bạn bè và đồng nghiệp
trong giới học thuật của tôi - vui mừng, vì:
(1) Như
vậy là chúng ta đã có một hệ thống xếp hạng ĐH riêng, do một nhóm học giả Việt
Nam độc lập tiến hành, bảo đảm khách quan, minh bạch, có tham khảo và đối sánh
kĩ càng với các bảng xếp hạng quốc tế nhưng không sao chép, rập khuôn, phù hợp
điều kiện của đất nước;
(2) Trong
khi các tổ chức và cơ quan có trách nhiệm vẫn đang loay hoay với việc thực hiện
Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 8-9-2015 của Chính phủ về "phân tầng xếp hạng"
đại học và câu chuyện ấy vẫn còn đang gây ra nhiều tranh cãi thì rất may "tự
dưng" chúng ta lại có một bảng xếp hạng ĐH của Việt Nam, do một nhóm phi lợi
ích, phi chính phủ, độc lập và không bị tác động của lợi ích nhóm nào, tiến
hành;
(3) Công
trình đó không xài một đồng tiền thuế nào của dân, Nhóm chỉ có 6 người, làm
trong 3 năm;
(4) Kết
quả xếp hạng khả tín vì cũng tương đồng với các công bố gần đây về xếp hạng ĐH
Việt Nam của một số tổ chức xếp hạng quốc tế như Webometrics,
Scientometrics;
(5) Chắc
chắn phương pháp thu thập số liệu, tiêu chí và các trọng số trong bảng xếp hạng
sẽ tiếp tục là đề tài tranh luận sôi nổi của những người quan tâm đến chất lượng
GDĐH Việt Nam, và vì thế, tự nó tạo ra một diễn đàn sôi nổi và xây dựng về chất
lượng GDĐH Việt Nam;
(6) Tạo ra
văn hóa chất lượng trong đánh giá ĐH, hạn chế dần sự tù mù định tính chung
chung, trường này thuộc top trên, trường kia thuộc top dưới như xã hội vẫn
thường "xếp hạng";
(7) Rất có
thể công bố này sẽ khiến các nhà làm chính sách, các trường ĐH phải xem lại công
việc của mình, và xã hội cũng sẽ có những điều chỉnh thang bậc giá trị trong
GDĐH theo hướng tiệm cận dần những chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Điều đó, không
ít thì nhiều, đều có ích cho người học, cho xã hội...
Cú huých
làm bừng tỉnh nhiều người
Điều quan
trọng là kết quả xếp hạng lần đầu này đã như một "cú huých" làm bừng tỉnh không
ít người.
Trong
nhiều năm qua, các thang bậc giá trị của GDĐH trong xã hội phần nhiều được nhìn
nhận cảm tính theo những thước đo của đám đông, không ít trong số đó là phi khoa
học. Họ gọi trường X là trường top trên vì nhiều học sinh giỏi bậc THPT thi vào,
điểm chuẩn đầu vào cao; họ coi trường Y là trường top dưới vì ít học sinh giỏi
thi vào, thí sinh đa phần là con em nông dân, vùng sâu vùng xa, điểm chuẩn đầu
vào thấp hơn. Thì ra trường thuộc top nào phụ thuộc điểm chuẩn, mà điểm chuẩn
lại phụ thuộc việc sinh viên trường ấy ra trường dễ kiếm được việc làm ở các vị
trí "thơm tho", nghĩa là lương cao hơn, nhàn hạ hơn, được làm việc trong phòng
có máy lạnh, không phải đầu tắt mặt tối, dầm mưa dãi nắng, có nhiều cơ hội thăng
tiến hơn... Họ không cần biết trường ĐH ấy đã có những công trình khoa học nào
được ứng dụng thành công trong thực tiễn sản xuất và đời sống, có đóng góp đáng
kể nào cho quốc kế dân sinh hay đã có cống hiến gì làm phong phú thêm kho tàng
tri thức của dân tộc và của nhân loại.
Về đại
thể, GDĐH có ba nhiệm vụ chủ yếu: (1) sáng tạo ra tri thức mới thông qua NCKH và
phát triển công nghệ, (2) truyền bá những tri thức ấy và những tri thức kế thừa
khác cho thế hệ đương thời và thế hệ sau thông qua đào tạo, và (3) thắp lên ngọn
lửa đam mê sáng tạo, ý thức nghề nghiệp và trách nhiệm công dân trong lòng người
học. Vì thế, để GDĐH không biến thành "phổ thông cấp 4" thì NCKH phải trở thành
nhiệm vụ quan trọng nhất, ngang bằng (nếu không muốn nói là hơn) với nhiệm vụ
giảng dạy, như các trường ĐH Nhật Bản và phương Tây đã làm, và sau đó một số
nước đang phát triển khác đã khôn ngoan học theo. Vì vậy, nhiều người đánh giá
cao bộ tiêu chí về NCKH chiếm 40% tổng số điểm xếp hạng của
Nhóm.
"Cú huých"
này sẽ làm các trường ĐH suy nghĩ nghiêm túc hơn về NCKH, cái làm nên "sức sống
của trường ĐH" nhưng thời gian qua không được mấy trường dành cho sự quan tâm
thích đáng. Trong GDĐH Việt Nam thì "vùng trũng" sâu nhất là NCKH; nó cần được
"lấp đầy" trước hết để cùng với lực kéo của nhu cầu học tập của xã hội thì lực
đẩy của NCKH trong các trường ĐH sẽ tạo ra những bước đột phá, đưa ĐH Việt Nam
hội nhập sâu sắc và toàn diện hơn với bè bạn quốc tế theo những thước đo và
thang bậc giá trị chung.
Trong một
thế giới mở, cạnh tranh về GDĐH về thực chất là cạnh tranh về NCKH và năng lực
đổi mới sáng tạo của các trường ĐH vì suy cho cùng, danh tiếng trường ĐH được
xây dựng và khẳng định dựa trên chất lượng đào tạo, mà chất lượng đào tạo lại
phụ thuộc chất lượng NCKH. Tác động vào "điểm nhấn" này sẽ khiến các nội hàm
khác của GDĐH thay đổi theo.
Đôi điều
góp ý
Nhiều ý
kiến cho rằng khi đánh giá về NCKH, Nhóm lấy các công trình công bố trên hệ
thống ISI và Scopus là đúng nhưng chưa đủ. Trong điều kiện cụ thể của đất nước,
các tiêu chí về NCKH nên quan tâm nhiều hơn đến các phát minh, tiến bộ kĩ thuật,
giải pháp hữu ích, đổi mới và sáng tạo công nghệ được áp dụng trong thực tiễn
sản xuất và đời sống, phục vụ quốc kế dân sinh... Các công trình này cần có
trọng số cao hơn các công bố quốc tế, ít nhất là trong giai đoạn hiện nay. Có lẽ
các nhà khoa học Triều Tiên công bố quốc tế rất ít nhưng họ vẫn khiến cộng đồng
khoa học quốc tế nể trọng bởi các cống hiến khoa học của họ cho đất nước mình.
Hi vọng là cách tính này sẽ góp phần thúc đẩy hình thành thị trường khoa học và
công nghệ còn đang rất yếu của chúng ta.
Nhóm cũng
cần bổ sung tiêu chí về tiền ngân sách trên đầu giảng viên, trên một công bố
quốc tế, một bản quyền công nghệ... Cùng trong hệ thống GDĐH quốc dân nhưng có
trường được nhà nước đầu tư hàng ngàn tỉ đồng cho chi thường xuyên và NCKH, hỗ
trợ đến hơn 10 triệu đồng/sinh viên/năm học trong khi có trường lại chỉ nhận
được vài ba triệu đồng/sinh viên/năm học, và có những trường (ĐH tự chủ) không
được nhận đồng nào hoặc được nhận rất ít sự hỗ trợ kinh phí của nhà nước. Họ
phải tự lo mọi hoạt động, cố gắng dành dụm từng đồng cho NCKH. Như vậy, sự cạnh
tranh thứ hạng ở đây rất không công bằng. Chúng ta có thể có bức tranh xếp hạng
hoàn toàn khác, nhất là về NCKH, nếu nhà nước đầu tư cho các trường một cách
bình đẳng, việc phân bổ kinh phí chỉ dựa trên KPIs (Key Performance Indicators)
của các cơ sở GDĐH.
Cùng với
xếp hạng theo trường, Nhóm cũng cần quan tâm đầy đủ hơn việc xếp hạng theo ngành
hay nhóm ngành NCKH và đào tạo, như cách các tổ chức xếp hạng quốc tế đang làm.
Một trường có thể xếp hạng 100 trong xếp hạng tổng thể nhưng lại đứng thứ nhất
về lĩnh vực khoa học X, đứng thứ 50 về lĩnh vực khoa học Y… Làm sao để khi soi
vào bảng xếp hạng, hầu hết các trường đều thấy mình trong đó, tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh.
Chúng tôi
tin rằng trong các năm tiếp theo, Nhóm sẽ hoàn thiện thêm phương pháp nghiên
cứu, bổ sung và chỉnh sửa các tiêu chí và trọng số của các tiêu chí, đồng thời
kiên trì và dũng cảm giữ vững tính độc lập, khách quan, tự tin và cầu thị, từ đó
giành được thêm niềm tin của xã hội.
T.Đ.V
Nguồn: http://tiasang.com.vn/-giao-duc/Mot-no-luc-dang-tran-trong-10918
Phần
nhận xét hiển thị trên trang
Trần Đức Viên
|
BVN nhất
trí với GS-TS Trần Đức Viên. Ở một đất nước mà ngay cả GS-TSKH Hoàng Xuân Phú
(Viện Toán học - Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam) cũng phải sững sờ
trước những con số phản ánh khối lượng và chất lượng công việc của các giáo sư,
phó giáo sư mà Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước công bố thì nỗ lực của Nhóm
xếp hạng đại học Việt Nam thực đáng trân trọng. Có lẽ trường đại học tử tế nào
cũng muốn có tên trong những bảng xếp hạng kiểu như thế
này.
Bauxite
Việt Nam
|
Không đi
thì không đến
Xếp hạng
đại học (ĐH) là một công việc hết sức khó khăn, gai góc và phức tạp, đòi hỏi sự
khách quan, nghiêm túc, công phu, thận trọng, dựa trên cơ sở dữ liệu đủ lớn, khả
tín, minh bạch với một hệ thống tiêu chí cũng như trọng số của từng tiêu chí
phải hết sức khoa học và thuyết phục. Trong bối cảnh Việt Nam, nơi hành vi của
mỗi cá nhân và cộng đồng vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi triết lí sống "một trăm
cái lí không bằng một tí cái tình" hay " xấu đều hơn tốt lỏi"… thì đây còn là
một công việc tế nhị, nhạy cảm mà những người không đủ bản lĩnh và dũng khí sẽ
không dám làm. Vì thế, việc Nhóm Xếp hạng ĐH Việt Nam (sau đây xin gọi tắt là
"Nhóm") gồm TS Lưu Quang Hưng, TS Nguyễn Ngọc Anh, TS Giáp Văn Dương, TS Ngô Đức
Thế, ThS Trần Thanh Thủy và ThS Nguyễn Thị Thu Huyền, mỗi người "một phương
trời", cùng nhau tiến hành và công bố bảng xếp hạng mang tính tổng thể đầu tiên
đối với 49 trường ĐH Việt Nam đã được đông đảo những người quan tâm đến chấn
hưng giáo dục (GD) ĐH Việt Nam đón nhận một cách trân trọng. Đã có nhiều ý kiến
bày tỏ lòng khâm phục sự nỗ lực, dám đối mặt với khó khăn và không cầu toàn của
nhóm tác giả, tin tưởng vào các phương pháp định lượng được sử dụng dù còn nhiều
tiêu chí và trọng số của các tiêu chí cần được thảo luận thêm. Đặc biệt, điều
đáng hoan nghênh là Nhóm đã chú trọng đến chất lượng, nhất là chất lượng nghiên
cứu khoa học (NCKH), cái quyết định danh tiếng và đẳng cấp của một trường
ĐH.
Thực tế
là, kết quả xếp hạng ĐH, dù do một tổ chức uy tín đến mấy công bố thì cũng không
thể hoàn hảo bởi không có bảng xếp hạng nào phản ánh được tất cả các mặt và lĩnh
vực hoạt động của một trường ĐH. Nhưng bất cứ bảng xếp hạng nào cũng đóng góp
những giá trị nhất định và có sự tương thích nào đó với chất lượng đào tạo và
NCKH của các trường nằm trong bảng xếp hạng, và vì thế, đó là một tài liệu tham
khảo, còn mức độ quan trọng đến đâu thì phụ thuộc mục đích và quan điểm của
người sử dụng. Các bảng xếp hạng này, không ít thì nhiều, đã góp phần vào việc
thay đổi chính sách quốc gia, chiến lược cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các trường ĐH theo hướng ngày một nhân văn và khai sáng hơn. Xếp hạng
còn khuyến khích các trường minh bạch thông tin, giúp xã hội và nhà nước giám
sát tốt hơn chất lượng hoạt động của các trường.
Vạn sự
khởi đầu nan, không đi thì không đến, vì thế, với việc công bố báo cáo xếp hạng
đầu tiên, Nhóm đã làm cho nhiều người - ít nhất là những bạn bè và đồng nghiệp
trong giới học thuật của tôi - vui mừng, vì:
(1) Như
vậy là chúng ta đã có một hệ thống xếp hạng ĐH riêng, do một nhóm học giả Việt
Nam độc lập tiến hành, bảo đảm khách quan, minh bạch, có tham khảo và đối sánh
kĩ càng với các bảng xếp hạng quốc tế nhưng không sao chép, rập khuôn, phù hợp
điều kiện của đất nước;
(2) Trong
khi các tổ chức và cơ quan có trách nhiệm vẫn đang loay hoay với việc thực hiện
Nghị định số 73/2015/NĐ-CP ngày 8-9-2015 của Chính phủ về "phân tầng xếp hạng"
đại học và câu chuyện ấy vẫn còn đang gây ra nhiều tranh cãi thì rất may "tự
dưng" chúng ta lại có một bảng xếp hạng ĐH của Việt Nam, do một nhóm phi lợi
ích, phi chính phủ, độc lập và không bị tác động của lợi ích nhóm nào, tiến
hành;
(3) Công
trình đó không xài một đồng tiền thuế nào của dân, Nhóm chỉ có 6 người, làm
trong 3 năm;
(4) Kết
quả xếp hạng khả tín vì cũng tương đồng với các công bố gần đây về xếp hạng ĐH
Việt Nam của một số tổ chức xếp hạng quốc tế như Webometrics,
Scientometrics;
(5) Chắc
chắn phương pháp thu thập số liệu, tiêu chí và các trọng số trong bảng xếp hạng
sẽ tiếp tục là đề tài tranh luận sôi nổi của những người quan tâm đến chất lượng
GDĐH Việt Nam, và vì thế, tự nó tạo ra một diễn đàn sôi nổi và xây dựng về chất
lượng GDĐH Việt Nam;
(6) Tạo ra
văn hóa chất lượng trong đánh giá ĐH, hạn chế dần sự tù mù định tính chung
chung, trường này thuộc top trên, trường kia thuộc top dưới như xã hội vẫn
thường "xếp hạng";
(7) Rất có
thể công bố này sẽ khiến các nhà làm chính sách, các trường ĐH phải xem lại công
việc của mình, và xã hội cũng sẽ có những điều chỉnh thang bậc giá trị trong
GDĐH theo hướng tiệm cận dần những chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Điều đó, không
ít thì nhiều, đều có ích cho người học, cho xã hội...
Cú huých
làm bừng tỉnh nhiều người
Điều quan
trọng là kết quả xếp hạng lần đầu này đã như một "cú huých" làm bừng tỉnh không
ít người.
Trong
nhiều năm qua, các thang bậc giá trị của GDĐH trong xã hội phần nhiều được nhìn
nhận cảm tính theo những thước đo của đám đông, không ít trong số đó là phi khoa
học. Họ gọi trường X là trường top trên vì nhiều học sinh giỏi bậc THPT thi vào,
điểm chuẩn đầu vào cao; họ coi trường Y là trường top dưới vì ít học sinh giỏi
thi vào, thí sinh đa phần là con em nông dân, vùng sâu vùng xa, điểm chuẩn đầu
vào thấp hơn. Thì ra trường thuộc top nào phụ thuộc điểm chuẩn, mà điểm chuẩn
lại phụ thuộc việc sinh viên trường ấy ra trường dễ kiếm được việc làm ở các vị
trí "thơm tho", nghĩa là lương cao hơn, nhàn hạ hơn, được làm việc trong phòng
có máy lạnh, không phải đầu tắt mặt tối, dầm mưa dãi nắng, có nhiều cơ hội thăng
tiến hơn... Họ không cần biết trường ĐH ấy đã có những công trình khoa học nào
được ứng dụng thành công trong thực tiễn sản xuất và đời sống, có đóng góp đáng
kể nào cho quốc kế dân sinh hay đã có cống hiến gì làm phong phú thêm kho tàng
tri thức của dân tộc và của nhân loại.
Về đại
thể, GDĐH có ba nhiệm vụ chủ yếu: (1) sáng tạo ra tri thức mới thông qua NCKH và
phát triển công nghệ, (2) truyền bá những tri thức ấy và những tri thức kế thừa
khác cho thế hệ đương thời và thế hệ sau thông qua đào tạo, và (3) thắp lên ngọn
lửa đam mê sáng tạo, ý thức nghề nghiệp và trách nhiệm công dân trong lòng người
học. Vì thế, để GDĐH không biến thành "phổ thông cấp 4" thì NCKH phải trở thành
nhiệm vụ quan trọng nhất, ngang bằng (nếu không muốn nói là hơn) với nhiệm vụ
giảng dạy, như các trường ĐH Nhật Bản và phương Tây đã làm, và sau đó một số
nước đang phát triển khác đã khôn ngoan học theo. Vì vậy, nhiều người đánh giá
cao bộ tiêu chí về NCKH chiếm 40% tổng số điểm xếp hạng của
Nhóm.
"Cú huých"
này sẽ làm các trường ĐH suy nghĩ nghiêm túc hơn về NCKH, cái làm nên "sức sống
của trường ĐH" nhưng thời gian qua không được mấy trường dành cho sự quan tâm
thích đáng. Trong GDĐH Việt Nam thì "vùng trũng" sâu nhất là NCKH; nó cần được
"lấp đầy" trước hết để cùng với lực kéo của nhu cầu học tập của xã hội thì lực
đẩy của NCKH trong các trường ĐH sẽ tạo ra những bước đột phá, đưa ĐH Việt Nam
hội nhập sâu sắc và toàn diện hơn với bè bạn quốc tế theo những thước đo và
thang bậc giá trị chung.
Trong một
thế giới mở, cạnh tranh về GDĐH về thực chất là cạnh tranh về NCKH và năng lực
đổi mới sáng tạo của các trường ĐH vì suy cho cùng, danh tiếng trường ĐH được
xây dựng và khẳng định dựa trên chất lượng đào tạo, mà chất lượng đào tạo lại
phụ thuộc chất lượng NCKH. Tác động vào "điểm nhấn" này sẽ khiến các nội hàm
khác của GDĐH thay đổi theo.
Đôi điều
góp ý
Nhiều ý
kiến cho rằng khi đánh giá về NCKH, Nhóm lấy các công trình công bố trên hệ
thống ISI và Scopus là đúng nhưng chưa đủ. Trong điều kiện cụ thể của đất nước,
các tiêu chí về NCKH nên quan tâm nhiều hơn đến các phát minh, tiến bộ kĩ thuật,
giải pháp hữu ích, đổi mới và sáng tạo công nghệ được áp dụng trong thực tiễn
sản xuất và đời sống, phục vụ quốc kế dân sinh... Các công trình này cần có
trọng số cao hơn các công bố quốc tế, ít nhất là trong giai đoạn hiện nay. Có lẽ
các nhà khoa học Triều Tiên công bố quốc tế rất ít nhưng họ vẫn khiến cộng đồng
khoa học quốc tế nể trọng bởi các cống hiến khoa học của họ cho đất nước mình.
Hi vọng là cách tính này sẽ góp phần thúc đẩy hình thành thị trường khoa học và
công nghệ còn đang rất yếu của chúng ta.
Nhóm cũng
cần bổ sung tiêu chí về tiền ngân sách trên đầu giảng viên, trên một công bố
quốc tế, một bản quyền công nghệ... Cùng trong hệ thống GDĐH quốc dân nhưng có
trường được nhà nước đầu tư hàng ngàn tỉ đồng cho chi thường xuyên và NCKH, hỗ
trợ đến hơn 10 triệu đồng/sinh viên/năm học trong khi có trường lại chỉ nhận
được vài ba triệu đồng/sinh viên/năm học, và có những trường (ĐH tự chủ) không
được nhận đồng nào hoặc được nhận rất ít sự hỗ trợ kinh phí của nhà nước. Họ
phải tự lo mọi hoạt động, cố gắng dành dụm từng đồng cho NCKH. Như vậy, sự cạnh
tranh thứ hạng ở đây rất không công bằng. Chúng ta có thể có bức tranh xếp hạng
hoàn toàn khác, nhất là về NCKH, nếu nhà nước đầu tư cho các trường một cách
bình đẳng, việc phân bổ kinh phí chỉ dựa trên KPIs (Key Performance Indicators)
của các cơ sở GDĐH.
Cùng với
xếp hạng theo trường, Nhóm cũng cần quan tâm đầy đủ hơn việc xếp hạng theo ngành
hay nhóm ngành NCKH và đào tạo, như cách các tổ chức xếp hạng quốc tế đang làm.
Một trường có thể xếp hạng 100 trong xếp hạng tổng thể nhưng lại đứng thứ nhất
về lĩnh vực khoa học X, đứng thứ 50 về lĩnh vực khoa học Y… Làm sao để khi soi
vào bảng xếp hạng, hầu hết các trường đều thấy mình trong đó, tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh.
Chúng tôi
tin rằng trong các năm tiếp theo, Nhóm sẽ hoàn thiện thêm phương pháp nghiên
cứu, bổ sung và chỉnh sửa các tiêu chí và trọng số của các tiêu chí, đồng thời
kiên trì và dũng cảm giữ vững tính độc lập, khách quan, tự tin và cầu thị, từ đó
giành được thêm niềm tin của xã hội.
T.Đ.V
Nguồn: http://tiasang.com.vn/-giao-duc/Mot-no-luc-dang-tran-trong-10918






0 nhận xét:
Đăng nhận xét